Mang trên mình những khiếm khuyết nên di chuyển đơ cứng như cỗ máy, học trò hay gọi một người anh, người thầy của mình là “anh Hai rô-bốt” hay “anh Hai chim cánh cụt”. Người đàn ông đó không ai khác là anh Lê Quốc Hưng (56 tuổi, thôn Tuân Lễ, xã Phước Hiệp), người hơn 30 năm qua tình nguyện dạy học miễn phí cho học sinh nghèo.
Suốt 30 năm qua, anh Hưng tình nguyện dạy học miễn phí cho học sinh các làng quê nghèo nơi “rốn lũ” Bình Định.
Cuộc đời khổ đau của cái tên anh Hai “chim cánh cụt”
“Cuộc đời của tôi tưởng đã chấm hết từ cách đây 30 năm rồi! Bệnh tật gần như đã quật ngã, cướp hết những hoài bão của tôi. Nhưng thật may, cơ duyên lại một lần nữa hồi sinh cuộc đời mới cho tôi”, anh Hưng mở lời câu chuyện.
Sinh ra trong gia đình khá giả ở thị xã Quy Nhơn (nay là TP Quy Nhơn, Bình Định), từ nhỏ cậu bé Hưng đã bộc lộ sự nhanh nhẹn, thông minh. Ngoài học giỏi các môn Toán, Lý, Hóa, Sinh, Tiếng Anh, Hưng còn có đam mê đàn hát, chơi các bộ môn thể thao như chạy xa, nhảy cao, võ…
Tuy nhiên, mọi thứ thay đổi kể từ khi anh Hưng bắt đầu bước vào tuổi 12. Khi ấy, những cơn đau nhức các khớp xương bắt đầu hành hạ, lên cơn bất chợt. Dù đã cố gắng chạy chữa nhưng bệnh tình không thuyên giảm, ấy vậy mà anh Hưng vẫn rất ham học, anh cố gắng từng ngày để đến trường. Hết lớp 12, anh ấp ủ ước mơ thi đậu Đại học Y khoa.
Trớ trêu thay, ngày chuẩn bị thi đại học thì bệnh tình anh Hưng trở nặng, các khớp xương toàn thân đau nhức. “Lúc ấy, bố mẹ tôi chạy vạy khắp nơi để cứu chữa, từ bệnh viện đến nhờ vả các thầy thuốc, kể cả thầy cúng… Ban đầu, các bác sĩ chẩn đoán tôi bị lao xương khớp, cho thuốc về uống, nhưng bệnh không bớt, càng nặng thêm, cứ ăn và uống thuốc vào thì ói ra hết, thân thể co rút, chỉ còn bộ xương. Đến khi vào khám tại bệnh viện ở TPHCM, các bác sĩ bảo tôi bị viêm cột sống dính khớp, chưa có phương pháp điều trị nên khuyên về nhà cố gắng ăn uống, nghỉ dưỡng chờ kỳ tích”, anh Hưng chia sẻ.
Năm tháng trôi qua, không có kỳ tích nào xuất hiện. Cơn bệnh quái ác ngày ngày gặm nhấm, khiến anh và gia đình kiệt quệ. Vì thương con, ba mẹ anh buộc phải bán hết cả đất lẫn nhà để lo chạy chữa khắp nơi.
Đến năm 1991, đất đai, gia sản ở Quy Nhơn bán hết, nợ nần chồng chất, bố mẹ gửi Hưng về Phước Hiệp ở nhờ bà cô nuôi. Ngày rời bỏ Quy Nhơn, Hưng đau khổ tột cùng. “Tôi như kẻ thất bại trốn chạy, chỉ thương cho bố mẹ chạy vạy khắp nơi, tán gia bại sản”, anh Hưng nói. Ngày về Phước Hiệp, anh Hưng phải đeo 2 nạng mới đi lại được.
“Trong một lần bị trượt té xuống kênh mương, tôi rất bực tức. Tôi nghĩ, chẳng lẽ mình phải tàn phế, đeo nạng suốt đời hay sao. Tôi đập gãy 2 cây nạng, vịn vách rào tre, vách nhà tập đi”. Anh nhích từng bước, rồi khập khiễng đi từng bước ngắn té lên bổ xuống, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Dần dần, anh Hưng cũng định hình được lối đi mới, bước chân cũng nhanh hơn, nhưng nghiêng ngả như loài “chim cánh cụt”, rô-bốt…
Sự chuyển mình để trở thành anh Hai của hàng ngàn học sinh nghèo
Năm 1992, dù thân thể mang bệnh tật, nhưng anh Hưng không bỏ cuộc. Anh cố gắng kiểm soát được những cơn trở chứng và quyết định phải làm một việc gì đó có ích. Anh kêu đám trẻ con trong họ cũng như trong làng lại để chi dạy bài vở cho chúng. Ban đầu, anh chỉ dạy cho học sinh khối lớp 1 đến lớp 5.
“Các em đều có hoàn cảnh khó khăn, có em phải đi nhặt phân bò, nhặt củ mì để phụ giúp gia đình nên không có điều kiện ôn tập bài vở ngoài giờ học trên trường. Vì thế, tôi quyết định làm người anh chỉ bài, ôn tập như gia sư tại nhà cho các em”, anh Hưng nói.
Đến năm 2002, bố mẹ anh Hưng chuyển hẳn về làng Tuân Lễ (xã Phước Hiệp) để sinh sống dưới ngôi nhà tranh, vách đất. Tận dụng bóng mát của các bụi tre trước nhà, bố xin ván gỗ đóng một cái bàn, làm bảng để con dạy học. Dân làng thấy thương thầy Hưng nên chung tay lợp mái lá, đóng bàn ghế cho học sinh, quyên góp tiền mua phấn, bảng, bút viết, thuốc thang…
Anh Hưng nhớ lại lớp đầu tiên thầy Hưng dạy gồm 20 học sinh, đều là con em trong làng Tuân Lễ. Học sinh đến nhờ anh chỉ dạy, giảng bài, ôn bài tập nhà trường giao về nhà. Còn anh Hưng thì tá túc dưới rặng tre, từng ngày đem nhiệt huyết giúp đỡ học trò, lấy nụ cười, sự hồn nhiên con trẻ để vượt qua bệnh tật, sống tiếp.
Anh Hưng đã dạy nhiều thế hệ học trò nghèo
Các thế hệ học trò không gọi anh Hưng là thầy mà gọi “anh Hai Hưng”. Thầy Hưng nhận giúp đỡ học sinh từ lớp 1 lên đến lớp 12, chủ yếu các bộ môn Toán, Lý, Hóa, Tiếng Anh theo suốt cả hành trình học. Để có giáo án, anh phải tận dụng từng trang vở cũ còn trống của học trò để đóng tập chép các công thức, thuật toán, lưu ý, kinh nghiệm, đúc kết.
Học sinh qua từng khóa chẳng có gì ngoài tặng lại “anh Hai” những tập sách, vở cũ, giấy trắng (để đóng tập), các đề thi, ôn tập… Nhờ vậy, giáo án, tài liệu giảng dạy của anh Hưng ngày càng phong phú, đầy đủ hơn. Anh chịu khó vừa chuyên tâm nghiên cứu, tìm tòi giải hết tất cả bài học từ chương trình giáo dục cũ đến bộ sách mới cải tiến. Khi học sinh hỏi, bài nào giải được ngay thì anh giảng luôn tại chỗ, còn chưa giải ra thì anh thức thâu đêm lục lọi, nghiên cứu để tìm cách giải sớm nhất cho các em.
Càng về sau, tiếng lành đồn xa, học sinh nhiều xã, vùng lũ huyện Tuy Phước và các huyện Tây Sơn, Vân Canh (Bình Định) cũng tìm đến nhờ thầy Hưng chỉ bài. Có thời điểm, mỗi ngày “anh Hai Hưng” ôn bài cho 5 nhóm học sinh (50 em). Thời gian nghỉ, anh Hai cùng học trò tám chuyện đủ thứ, chúng coi anh như người thân trong nhà nên chuyện gì cũng kể,... Lắng nghe trò chuyện của đám trẻ nên anh Hưng cũng hiểu được hoàn cảnh của từng em và cũng giống như một người anh, anh hỏi han, động viên đám trẻ vượt qua những lúc khó khăn. Cứ thế, đằng đẵng suốt 30 năm trời, nhiều thế hệ học sinh từng được “anh Hai” giúp đỡ nay đã có công ăn việc làm, ngành nghề ổn định.
Hỏi chuyện về anh Hưng, bà con lối xóm gần nhà anh thương số phận trớ trêu của người thầy giáo tật nguyền nhưng cũng nể sự nghị lực của hai anh em. Sau khi bố mẹ mất, vài năm sau, người em đã chuyển về sống cùng anh Hưng để tiện bề chăm sóc. Nhưng được mấy năm, vợ của người em mất, hai anh em từ đó nương vào nhau. Anh thì dạy học cho trẻ trong làng, em thì chăn nuôi trâu, bò, heo, gà, làm nông… Anh em họ sống rất nghĩa tình nên làng xóm ai nấy đều quý mến, đùm bọc.